From: Đỗ Thị Kim Loan
<
Date: 2013/6/6
Subject: CHÚT HOA QUANH VƯỜN - H.K.LOAN / THẢO CẦM VIÊN XƯA / KỲ BÍ NGÔI LÀNG HÌNH CÁ CHÉP / NGƯỜI LÍNH GIÀ XA QUÊ HƯƠNG
To:
Date: 2013/6/6
Subject: CHÚT HOA QUANH VƯỜN - H.K.LOAN / THẢO CẦM VIÊN XƯA / KỲ BÍ NGÔI LÀNG HÌNH CÁ CHÉP / NGƯỜI LÍNH GIÀ XA QUÊ HƯƠNG
To:
ĐÔI LỜI CÁM ƠN CỦA HƯƠNG KIỀU LOAN...
Hoàng Dung xin cám ơn những ACE đã tel hay email thăm hỏi vể sức khoẻ HKL - những ngày giữa tháng năm. Như có một linh tính báo cho biết chuyện không ổn, và thấy như mình có vẻ buồn buồn - không nguyên cớ - ngay từ tháng Giêng, do đấy, HD đã hủy bỏ mấy chuyến đi chơi xa dự định từ năm trước, hẹn hò với bạn bè thắm thiết là sẽ tham dự, v.v...
Nguyên do là trọn
năm 2012, HD đã lười không đi tập ở Gym như trước kia, cũng
lười đi bộ nữa và ăn uống thất thường theo ý thích !
May mà Diêm Vương tha mạng cho lần này nên
chỉ ở lại Bệnh Viện có một tối. Và bây giờ lại say mê làm vườn. Nhìn kết
quả công khó của mình khi trăm hoa đua nở cũng thích thú lắm! Tuy nhiên,
kể từ nay sẽ phải ăn kiêng nhiều thứ, nếu muốn sống lâu hơn... Không
thề để lượng mỡ được tụ trong mạch máu nữa, và nhất là phải siêng tập
thể thao... Nếu không vì những hobby mình đang đam mê, thì... sống cũng đã đủ
rồi. Chỉ mong sau này nếu có "đi" thì "đi" cho thật nhanh,
không đau đớn....
Gửi quý bạn đọc một file rong bút với chút
hình ảnh trong vườn. Hoa thì nhiều lắm, nhưng chắc phải làm PPS vậy.
Hương Kiều Loan
Ảnh Màu Về Thảo Cầm Viên Xưa
Tình cờ dạo mạng thấy
vài ảnh xưa về Sở Thú SG khá hay, xin post để bà con coi chơi. Gọi là Thảo Cầm
Viên vì vào trào Pháp có tên Tây là Jardins Botaniques, chỉ trồng cây mà thôi.
Thế rồi theo dòng thời gian, từ từ người ta biến đổi thành Sở Thú với sự hiện
diện của nhiều thú dữ. Từ những năm 60, 70, các buổi văn nghệ, đại nhạc hội đã
được tổ chức tại Sở Thú vào ngày Chúa Nhật. Và người ta đã cho xây thêm Vườn Địa
Đàng ngay trong Sở Thú vào đầu thập niên 70. Đương sự còn nhớ đã từng vào Vườn
Địa Đàng đó, nhưng chả thấy Adam và Eva đâu cả, chỉ thấy Chế Linh hát
"Tình Bơ Vơ" mà thôi.
Những ai còn nhớ vào
thời ấy, có mấy thợ chụp hình dạo thường 'moi tiền' du khách với ảnh màu lấy
liền. Với thời buổi kỹ thuật số ngày nay, chắc không còn nghề này. Dù sau năm
1975, Sở Thú là nơi vui chơi lý tưởng nhất cho giới trẻ thời đó vì trước thời
kỳ Kinh Tế Thị Trường, tại SG, không có nhiều nơi để tiêu khiển như bây giờ,
ngoài Thảo Cầm Viên và các rạp chiếu bóng...
Mời bạn xem hình ảnh
Thảo Cầm Viên thời Pháp thuộc.
Được xây dựng từ năm
1864, Thảo Cầm Viên Sài Gòn là một trong 8 nơi bảo tồn động thực vật cổ nhất
trên thế giới.
Tên gọi ban đầu của
nơi này là Vườn Bách Thảo, còn người dân quen gọi Sở thú. Đến năm 1956 Thảo Cầm
Viên mới trở thành tên gọi chính thức.
Với trẻ em miền Nam
thời xưa, Thảo Cầm Viên là điểm đến mơ ước mỗi khi được lên Sài Gòn.
Đối với du khách trong
và ngoài nước, đây cũng là một điểm du lịch rất hấp dẫn.
Rất nhiều loài động
vật hoang dã của Việt Nam được nuôi dưỡng tại đây, từ loài ăn cỏ như hươu
nai...
...đến các loài ăn
thịt hung dữ như hổ, báo.
Chuồng nuôi nhiều loại
chim.
Chuồng nuôi cá sấu.
Cùng với động vật là
hàng trăm loài thực vật lạ, quý hiếm.
Không chỉ có cỏ cây,
muông thú, Thảo Cầm Viên còn nổi tiếng với các cảnh quan đẹp, công trình kiến
trúc ấn tượng
Đó là hồ sen và nhà
Thủy Tạ thơ mộng.
Viện Bảo tàng
Đền Kỷ niệm
Tượng con voi bằng
đồng do vua Xiêm tặng nhân dịp đến thăm Sài Gòn năm 1930.
Cầu Thị Nghè phía sau
Thảo Cầm Viên.
Khung cảnh trên rạch
Thị Nghè cạnh Thảo Cầm Viên.
Vẻ tĩnh lặng của hồ sen.
====================================
Kỳ bí ngôi làng "hình
cá chép"
độc nhất Việt Nam
Làng Hành Thiện từ lâu đã nổi tiếng khắp nước với việc học hành khoa cử, không chỉ có vậy, mà nơi đây còn lưu truyền những câu chuyện kỳ bí và hấp dẫn cho hậu thế. "Tung mình ra biển Đông" từ hơn 500 năm trước Lật giở theo những trang sách "Hành Thiện xã chí" thì được biết làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, Nam Định vốn có tên gọi là "Hành Cung Trang" thành lập vào khoảng năm 1500. Đến năm 1823, vua Minh Mạng cho đổi tên thành Hành Thiện với ý nghĩa "nơi chỉ làm những điều lành, điều thiện" và ban cho làng 4 chữ "Mỹ Tục Khả Phong". Điều đáng khâm phục là ngay từ khi lập làng các cư dân nơi đây đã có ý thức quy hoạch một không gian sống hết sức khoa học, quy củ.
Làng Hành Thiện có
hình một chú cá chép đang tung mình lao ra biển Đông
Bao quanh làng là hai nhánh của một con sông
nhỏ rộng khoảng 7m, được gọi là sông Con (để phân biệt với sông Cái – sông
Ninh Cơ là một nhánh của sông Hồng). Theo các bậc cao niên trong làng, có hai
giả thiết về việc hình thành lên con sông này.
Giả thiết thứ nhất cho rằng, chúng được tạo thành một cách tự nhiên, những cư dân đến ở chỉ là người khai khẩn, chỉnh trang lại như địa thế ngày nay. Giả thiết thứ hai được nhiều người tán thành hơn, đó là chính những cư dân đầu tiên đã "quy hoạch" ngôi làng và tiến hành đào lên hai con sông theo ý đồ trước đó, nhằm mục đích phù hợp với phong thủy và ngăn giặc cướp.
Điều làm nên sự kỳ ảo của hai nhánh con sông này chính là việc
nó đã tạo hình dáng con cá chép của ngôi làng. Nhìn từ trên cao, hai nhánh
con sông như những đường viền ngăn cách ngôi làng với vùng đất bên cạnh,
khiến cho khu đất bên trong hiện lên hình dáng "lý ngư", những cây
cầu xung quanh làng cũng được xây dựng ở vị trí tương ứng với các loại vây
trên mình cá, tại phần đầu cá còn có một chiếc giếng khơi, nước trong vắt nên
được gọi là giếng Mắt cá.
Quả thực, nếu nhìn trên bản đồ, ta sẽ thấy làng Hành Thiện xuất hiện rõ nét với hình ảnh của một chú cá chép khổng lồ, đầu hướng về Nam, đuôi vòng phía Bắc, đang trong tư thế vẫy vùng như muốn tung mình lao ra biển Đông.
Nếu coi làng Hành Thiện như một chú cá chép
thì vùng đất từ giữa bụng cá trở lên đến mang cá được quy hoạch làm nơi sinh
sống của dân cư trong làng. Trong khu vực này hình thành lên 14 dong (xóm),
mỗi dong cắt ngang theo thân cá như chia khúc, gồm một con đường chạy dọc ở
giữa và các ngôi nhà được xây dựng hai bên. Phần đầu cá được quy định làm nơi
họp chợ của cả làng, tại đuôi cá là khu nghĩa trang và chùa miếu để phục vụ nhu
cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Nhìn tổng thể mặt địa lý làng Hành Thiện, ta không thể không khâm phục óc tưởng tượng của các cư dân cách đây hơn 510 năm, theo như tài liệu để lại, trước đây toàn bộ đường đi trong làng đều được lát đá xanh, "mưa gió bùn đất không bén gót chân", bên cạnh đường xóm là rãnh thoát nước được xây bằng gạch mộc. Chính vì thế, làng không bao giờ phải chịu cảnh ngập lụt, bởi tất cả nước mưa, nước sinh hoạt đều theo các rãnh này chảy ra hai nhánh con sông quanh làng và từ đó thoát ra sông Ninh Cơ. Ngày nay, về cơ bản, làng vẫn giữ nguyên hình dạng như thưở sơ khai, có chăng chỉ thay đổi về kiến trúc. Nhìn những dãy nhà thẳng tắp, đường đi phong quang, sạch sẽ, hai bên bờ sông là hàng liễu xanh mát mắt uốn lượn, bao bọc lấy ngôi làng, mới thấy hết được cái nhìn sâu xa của người xưa.
Vùng đất địa linh nhân kiệt
Theo như câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi trong
làng thì một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của cụ Tả Ao là chữa
"thế đất" cho làng Hành Thiện. Khi tới đây, cụ đã nhận thấy đất
làng có hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm
làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh.
Dân làng nghe cụ nói bèn hậu đãi trà rượu và khẩn khoản xin cụ đặt lại hướng làng. Cụ Tả Ao thấy dân làng tử tế, liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy, dân làng bắt đầu đại phát khoa danh. Tính xác thực của câu chuyện trên còn chưa được kiểm chứng, nhưng sự "đại phát khoa danh" của làng thì không thể bàn cãi. Có thể những số liệu dưới đây khiến nhiều người nghi ngờ, nhưng quả thật đó chính là những gì ngôi làng này đã và đang đóng góp cho đất nước. Theo ông Nguyễn Đăng Hùng (Hội trưởng Hội khuyến học làng) thì thời phong kiến, Hành Thiện có 419 người đỗ đạt, trong đó có đến 7 người đỗ đại khoa (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Làng có 4 người làm quan thượng thư, 4 người là quan tuần phủ, 4 người là tổng đốc, 69 người làm tri phủ, tri huyện... (Lời người post: Từ sau khi đất nước chia làm hai, một nửa phía Nam không có bản thống kê về thành tích học hành, thi cử, đỗ đạt của người làng Hành Thiện sống ở Miền Nam, do đó, người post xin lược bỏ phần thống kê những thành tích đỗ đạt, danh vọng chỉ có một số người, không đầy đủ, gồm 3 dòng chữ của tác giả tại đây, xin thứ lỗi).
Chuyện là mấy năm trước, để tiện việc đi lại
cho bà con trong làng, xã đã quyết định xây thêm một chiếc cầu ngay vị trí
mõm cá, nhiều vị bô lão đã lên tiếng phản đối vì cho rằng, chiếc cầu đó như
chiếc lưỡi câu, cá chép mà bị mắc lưỡi câu thì không thể "vượt vũ môn".
Vào năm 2005, chiếc cầu đã bị dỡ bỏ do xuống cấp và cũng để hợp lòng dân, ngay lập tức, năm đó làng có 75 con em trong làng đỗ đại học trong số gần 100 em dự thi. Tuy vậy, theo GS Đặng Vũ Khiêu, thì nguyên nhân chính của việc học hành đỗ đạt là do truyền thống ham học hỏi cộng với sự cần cù chăm chỉ của người dân sống nơi đây. Chùa Thần Quang - Ngôi cổ tự "kỵ sư" Được xây dựng vào thời nhà Lý, chùa Thần Quang (hay còn gọi là chùa Keo - Hành Thiện, để phân biệt với chùa Keo Thái Bình) được biết đến như ngôi chùa cố kính nhất miền Bắc. Năm 1061, thiền sư Dương Không Lộ (Quốc sư triều Lý) dựng chùa Thần Quang bên hữu ngạn sông Hồng. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần đến nền chùa, đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa.
Dân làng Keo phải dời bỏ quê cha đất tổ, một
nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng (về sau dựng nên
chùa Keo - Thái Bình); một phần xuống vùng Xuân Trường, và dựng lại chùa Keo
- Hành Thiện.
Vào thời Pháp thuộc, ngôi chùa đã được chính quyền Pháp liệt vào hàng "Cổ tự Đông Dương". Năm 1962, chùa đã được Nhà nước xếp hạng "Di tích lịch sử văn hóa". Ngoài các giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ và tư duy triết học, thì một trong những điều làm cho ngôi chùa trở lên nổi tiếng chính là việc tại đây không hề có bóng dáng của một vị sư sãi, mặc cho ngôi chùa đã tồn tại gần 1000 năm. Những năm trước, để quản lý ngôi cổ tự, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nhiều lần cử các bậc cao tăng về làm trụ trì, nhưng chỉ được ít lâu sau, những vị này đều lần lượt khăn gói ra đi chỉ với một lý do "thấy trong người khó ở". Vào các dịp lễ hội, tại đây vẫn có các vị tăng, ni đảm nhận việc làm lễ nhưng chỉ sau khi kết thúc là tất cả lại cất bước lên đường.
Chính vì thế, thay cho các vị sư, tại chùa
có chức danh "thủ nhang" - là những người đảm nhận việc trông coi
và hương khói cho chùa trong cả năm.
Để giải mã cho điều này, trong dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện đậm màu sắc "liêu trai". Truyền rằng, khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân làng nơi đây không mấy mặn mà với khói nhang, nên Đức Thánh tổ giận dữ mới dời chùa đi nơi khác.Trong một đêm, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre, rồi tất cả tượng Phật ngài đều cho cả vào đấy. Ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình, mang theo tất cả tượng Phật về nơi đất mới. Cũng nội trong đêm ấy, khi dân làng Duy Nhất (huyện Vũ Thư, Thái Bình) tỉnh giấc đã thấy ngôi chùa sừng sững mọc lên. Đức Thánh tổ rời bỏ chùa cũ cùng với lời nguyền: sẽ không có sư nào đến ở đất Hành Thiện. Tuy vậy, theo sách "Hành Thiện quê ta" của tác giả Đỗ Quang Huyên, còn có một lý do khác khiến cho nơi đây trở thành mảnh đất "kỵ sư". Theo tác giả, đất Hành Thiện từ xa xưa vốn là nơi có nhiều danh nho, sĩ tử. Các bậc nho sĩ ngày xưa không chỉ am tường Tứ thư – Ngũ Kinh mà còn thông hiểu cả đạo Phật; chính vì thế, các vị sư thường không đủ "tự tin" để giảng đạo tại đây, lâu dần thành lệ khiến cho chùa Keo - Hành Thiện trở lên "vắng bóng áo thâm". Thực hư những câu chuyện trên thế nào đến nay vẫn chưa được làm rõ, chỉ có điều ngôi chùa mang trong mình đầy những bí ẩn huyền hoặc, đến nay vẫn lặng lẽ ẩn mình thâm nghiêm dưới những bóng đa rợp mát xung quanh để lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của người dân. |
Người Lính
Già Xa Quê Hương
Người lính
già xa quê hương
Nghe trong
tim đêm ngày trăn trở
Nhớ quá một thời chinh chiến gian lao Nhớ phút hiên ngang đi vào binh lửa Sắt thép trong tay đang đối diện thù Bỗng tiếng loa vang lịnh truyền buông thả Nửa đời còn gì cung kiếm ngang trời Người lính già xa quê hương
Bao nhiêu đêm
anh nằm không ngủ
Nhớ quá mẹ hiền nhớ quá anh em Nhớ những đêm mưa quân hành đất đỏ Nhớ những đêm xuân nơi chốn địa đầu Nay quá xa xăm đường về thâm thẳm Nửa đời ngậm ngùi mang kiếp tha phương Ôi còn đâu! còn đâu!
Bạn bè ta
những anh hùng hào kiệt
Không tiếc chi xương máu giữ màu cờ Ôi còn đâu! còn đâu!
Một đời
trai một thời súng gươm
Nay bỗng dưng thành kẻ lưu vong Người lính già xa quê hương
Nhưng trong
tim chưa tàn ánh lửa
Vẫn ước một ngày theo bước Quang Trung Vẫn thấy quê hương đêm ngày réo gọi Vẫn thấy trong tim canh cánh đường về Vẫn thấy nơi đây chỉ là đất tạm Thầm hẹn ngày về chết giữa quê hương ~~oo0oo~~ Riêng tặng Người Lính Già Nguyễn Ngọc Phách - Houston, Texas - USA - Vừa lo việc nhà, chăm sóc hiền thê; vừa lau nước mắt, nhớ lại một thời chinh chiến gian lao
Posted by
Huỳnh Ngọc Đương - June 03, 2013
|
XIN POST LẠI, VÌ LẦN TRƯỚC KHÔNG MỞ ĐƯỢC...
Bốn Ngả Đường Quê Hương - Lê
Minh Bằng - NTH
http://www.youtube.com/embed/MEzrHnlgppo
|
No comments:
Post a Comment
Thanks your Comment